Trang chủ

Sáng Tối

Công nghệ


Công nghệ sản xuất bia

Lời giới thiệu

Trong hầu hết lịch sử của ngành sản xuất bia rượu, sản phẩm thương mại được cung cấp bởi những nhà sản xuất nhỏ. Ngày nay, với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật nhất là sự phát triển công nghiệp việc cung cấp các sản phẩm đồ uống chứa cồn được tập trung trong những công ty lớn. Các cuộc hội thảo, đàm phán, liên kết trên toàn thế giới nhằm mục đích phát triển sản phẩm thức uống chứa cồn cho xứng với vai trò của chúng.

Bia là một sản phẩm của Nông Nghiệp

Xét về nguồn gốc bia có xuất xứ từ các sản phẩm từ Nông nghiệp mặc dù một số ý kiến cho rằng vì muốn thỏa mãn nhu cầu sử dụng các sản phẩm chứa Cồn nên loài người mới phát triển ngành Nông nghiệp. Các chứng cứ cho thấy rằng bia được pha chế tại xung quanh vùng Lưỡng Hà khỏang 6000 đến 7000 năm trước. Người Ai Cập cổ đại đã ủ rượu, bia bằng các loại ngũ cốc của họ (lúa miến), việc này cũng xảy ra trong những bộ lạc người châu phi. Lịch sử phát triển của ngành công nghiệp sản xuất bia, rượu cũng có rất nhiều thăng trầm, cùng với việc người La Mã cho rằng sử dụng rượu làm từ ngũ cốc là phạm pháp.

Từ thế kỷ thứ 10 trong giai đoạn này việc sử dụng thảo dược rất phổ biến nên người Đức đã sử dụng Hop trong sản xuất bia và việc này được phổ biến toàn Châu âu. Ban đầu việc sử dụng Hop bị chống đối kịch liệt nhưng những lợi ích mà Hop mang lại cho sản phẩm bia như hương thơm và nhất là khả năng kháng khuẩn của chúng đã làm cho chúng dần dần được chấp nhận rộng rãi. Những nhà sản xuất bia không sử dụng Hop muốn kéo dài thời gian bảo quản chỉ phụ thuộc và nồng độ cồn có trong sản phẩm nhưng việc này phụ thuộc nhiều yếu tố nên thường thời gian bảo quản của các sản phẩm này thường ngắn. Mặc dù việc sử dụng Hop đồng nghĩa với việc trang bị thêm thiết bị và thao tác phức tạp nhưng những lợi ích do chúng mang đến là rất xứng đáng. Hop được sử dụng ở Anh vào thế kỷ thứ 15 và ở Bắc Mỹ vào đầu thế kỷ 17.

Trong một thời gian ngắn thuật ngữ rượu (Ale) và bia được dùng để chỉ những sản phẩm khác nhau. Rượu (Ale) dùng để chỉ thức uống chứa cồn không sử dụng Hop có độ cồn cao hơn sử dụng nhiều ở vùng nông thôn, ngược lại bia dùng để chỉ những sản phẩm có sử dụng Hop có vị đắng hơn, độ cồn nhẹ hơn và được sử dụng chủ yếu ở thành thị. Vào thế kỷ thứ 16 những nhà sản xuất rượu cũng dùng Hop nhưng với hàm lượng thấp trong sản phẩm của họ. Vào thế kỷ 17 loại bia không sử dụng Hop hòan tòan biến mất thế vào đó là sự đa dạng của các sản phẩm bia tùy thuộc vào vùng nguyên liệu và điều kiện khí hậu. Nguyên liệu chủ yếu để sản xuất bia là lúa đại mạch tuy nhiên cũng có thế thay thế bởi nguyên liệu khác như yến mạch, lúa mì, gạo…Trong thời gian này việc đánh thuế của một số địa phương trên sản phẩm bia là rất cao và bia chỉ được bán trong những quán rượu. Năm 1516 một đạo luật ra đời tại Reinheitsgebot nhằm bảo hộ cho sản phẩm bia của Đức có tên “Luật độ thuần khiết của sản phẩm bia Đức”, các chỉ tiêu về Đại mạch, Hop và nước để sản xuất bia được nêu ra cụ thể. Nấm men cũng được đưa vào danh sách khi chúng có nguồn gốc rõ ràng (định danh). Việc sử dụng lúa mì trong các loại bia đặc biệt cũng được cho phép.

Bia đã trở thành văn hóa trong cộng đồng dân cư phía bắc và trung tâm Châu âu vào thời trung cổ và khỏang đầu của thời kỳ hiện đại. Bia nhẹ được sử dụng rất thông dụng hàng ngày cho mọi đối tượng, còn bia mạnh dùng cho những người thích sử dụng thức uống có độ cồn cao hay trong các lễ hội. Việc phân biệt và đánh giá giữa bia nhẹ và bia mạnh cũng không có một công thức chung. Thường người ta sản xuất bia mạnh từ nước thứ nhất dịch trích Malt, còn bia nhẹ được lên men từ dịch trích từ Malt đại mạch nước 2, 3. Bia nhẹ thời kỳ này bia được sản xuất và dự trữ trong thời gian từ tháng 10 đến tháng 3 (vì trong mùa hè bia thường bị hư hỏng)

Vào cuối thế kỷ thứ 17, đã có những nhà máy sản xuất bia với quy mô hàng ngàn Hectoliter. Việc sản xuất bia nhỏ lẻ với quy mô gia đình chiếm 50% sản lượng lúc bấy giờ bia được bán chủ yếu trong những quán rượu nhỏ. Việc phát triển các nhà máy với quy mô lớn và sản phẩm đa dạng cùng với việc đô thị hóa tăng nhanh dẫn đến một thị trường rộng lớn cho ngành sản xuất bia.

Thế kỷ 18

Ngành bia có một sự chuyển đổi nhỏ khi có sự kết hợp của những cơ sở sản xuất gia đình với những nhà máy quy mô nhỏ. Việc buôn bán bia rộng rãi bởi hàng chục ngàn nhà sản xuất khắp Châu Âu và ở Mỹ đến năm 1800 có trên 150 nhà máy sản xuất bia. Việc buôn bán cũng rất thuận tiện khi ngành vận tải biển phát triển giá thành vận chuyển hàng hóa thấp. Benjamin Wilson người đã buôn bán bia với số lượng vài ngàn Hectoliters tại vùng Baltic.

Dân cư các thành phố ở Châu Âu tăng nhanh dẫn đến nhiều thay đổi của ngành sản xuất bia. London là một minh chứng cho sự thay đổi này thậm chí vào đầu thế kỷ 18 việc sản xuất bia tại đây đã tăng nhanh và được chịu sự chi phối bởi hiệp hội những nhà sản xuất bia. Sản lượng tạo ra đã vượt quá nhu cầu tiêu thụ với tỉ lệ 100:1 trong khi tỉ lệ này tính cho toàn quốc là 1:1. Năm 1750 sản lượng bia tại London do 5 nhà sản xuất chủ yếu (Thrale/Barclay Perkins, Whitbread, Truman, Meux, và Calvert) cung cấp đạt con số ấn tượng 80.000 Hectoliters đến năm 1799 con số này là 240.000 hectoliters. Sản phẩm do có độ đắng cao, màu sẫm và giá thành thấp nên phục vụ chủ yếu cho giới công nhân khuân vác

Porter: Sản phẩm bia được công nghiệp hóa đầu tiên

Nguồn gốc của bia porter có xuất xứ từ tên của nó là bia dành cho giới khuân vác tuy nhiên điều này cũng chưa rõ ràng và còn nhiều tranh cãi. Dựa trên những chứng cứ cho thấy rằng chúng được tiêu thụ bởi những người khuân vác. Theo tài liệu ghi chép lại năm 1760 bia Porter được tạo ra năm 1722 tại vùng phía Tây thành London khi người ta pha lẫn 3 loại bia để tạo ra loại Porter: Chủ yếu là bia nâu tươi mới sản xuất; bia nhạt vừa chín (giá 3 xu); và bia nâu cũ. Thực tế nguồn gốc của bia Porter xuất phát từ chính sách thuế rất cao đối với nguyên liệu dẫn đến việc giảm giá thành là việc không thể tránh. Việc tiến bộ của ngành sinh hóa và vi trùng học cũng góp phần làm cho ngành bia phát triển mạnh.

Trong thời gian này bia thường được chứa nhiều tháng trong những thùng lớn trước khi đem đi tiêu thụ. Đây là biện pháp kéo dài thời gian ủ chín (lên men phụ) nhằm khắc phục nhược điểm của việc lên men bằng chủng nấm men Brettanomyces là chủng tạo ra acid béo và ester ethyl với mức độ cao vượt ngưỡng cho phép gấp 10 lần mặc dù nồng độ cồn do chủng này tạo ra cao hơn so với các chủng khác. Việc kết hợp giữa 3 loại bia khác nhau cùng với hiệu quả do hoa Houblon đã tạo ra một sản phẩm đặc trưng là bia Porter, nó đã chinh phục được thị trường thành thị. Giá bán lẻ của Porter thấp hơn 25% so với sản phẩm khác (pale ale) tất cả mọi người từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng và người phân phối đều được hưởng lợi từ sản phẩm Porter. Quả là một thành công ngoài mong đợi.

Cơ giới hóa và tiêu chuẩn hóa sản phẩm bia

Do nhu cầu ngày càng cao nên việc cơ giới hóa là điều cần thiết. Năm 1785 khi Whitbreads lắp đặt tại nhà máy bia thứ 2 của mình một động cơ hơi nước và họ đã sản xuất 300,000 Hl  bia hàng năm. Việc cải tiến máy hơi nước của Boulton và Watt dẫn đến thời điểm cuối thế kỷ 18 ít nhất 26 động cơ hơi nước được lắp đặt trong những nhà máy bia.

Ghi chép đầu tiên về nhiệt độ của quá trình sản xuất bia được cho là của Michael Combrune vào những năm 50 của thế kỷ 18. Ông quan sát thấy rằng với nhiệt độ sấy Malt khác nhau sẽ cho ra sản phẩm có màu sắc thay đổi, ông cũng quan sát quá trình nghiền Malt và nhiệt độ lên men. Năm 1784 một bước tiến lớn khi John Richardson, một người sản xuất bia giới thiệu đường kế cho phép đo hàm lượng đường trong nước nha. Vào cuối thế kỷ 18 các thông số tiêu chuẩn của bia đã được chuẩn hóa dựa vào độ cồn (ABV Alcohol by volume) trong sản phẩm: bia mạnh chứa 7- 9%, Porter chứa 6- 7%, bia chứa 5- 7%, và thức uống chứa cồn chứa từ 2- 3.5%.

Thế kỷ 19

Công nghiệp hóa, gia tăng dân số, đô thị hóa, và nhu cầu tiêu thụ gia tăng là tiền đề cho sự phát triển của ngành công nghiệp sản xuất bia. Châu Âu dẫn đầu trong những nước uống bia: Vương quốc Anh, Đức và Belgium nhu cầu tăng từ 2 đến 4 lần từ  giữa những 1830 đến 1900. Sự phát triển của những mạng lưới đường sắt từ những năm 1830 làm thay đổi phương thức phân phối đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của cư dân gia tăng tới 50% của Châu Âu.Tại nước Anh các nghiệp đoàn được thành lập liên kết công nghiệp với nông nghiệp thông qua các nhà tư bản công nghiệp họ giành được  địa vị xã hội nhất định. Đến cuối thế kỷ 19 tuy chỉ có 1% trong số những nhà máy bia được vào sở giao dịch chứng khóan, nhưng ở Bavaria là nơi có sản lượng bia lớn nhất ở đây có những công ty chiếm 17% trong số tổng sản lượng của thế giới

Cuộc chiến giữa bia Porter và bia Ale

Vào đầu thế kỷ 19 bia Porter của Anh gần như chiếm lĩnh thị trường. Vào năm 1830 thị phần Porter lần đầu bị giảm sút trong vòng 50 năm thế vào đó là sự gia tăng doanh số của sản phẩm bia trung bình (midle) và pale ale. Việc ứng dụng đường kế để xác định hiệu suất thu hồi cùng với phát hiện khi dùng thêm một ít Malt có màu sẫm (thay đổi chế độ sấy) kết hợp với Malt nhạt màu cho hiệu quả tương tự như cách sử dụng Malt nâu với giá thành rẻ hơn nhiều. Sự thay đổi này khách hàng sử dụng rất khó phát hiện, dẫn đến vị trí độc tôn của bia porter trong một thời gian dài bị lung lay.

Thời đại của kỹ thuật lên men chìm

Lịch sử ghi nhận những chuyến thăm của Gabriel Sedlmayr Jr. và Anton Dreher người đã có một cuộc hành trình chung quanh Nước Anh và Scotland vào 1833, thu nhận các thông tin từ những nhà máy bia. Khi trở lại quê nhà, những người này nhanh chóng áp dụng các kỹ thuật sản xuất trong những nhà máy bia của họ, bao gồm cả việc sử dụng đường kế. Các ông phát triển kỹ thuật lên men chìm mặc dù kỹ thuật này đã được biết đến ít nhất từ năm 1400 ở Bavaria . Đặc điểm của kỹ thuật này là nhiệt độ thấp, nhiệt độ lên men chính từ 4 tới 100C  và nhiệt độ lên men phụ từ 2 tới 40C. Trong khi toàn thế giới sử dụng kỹ thuật lên men nổi có nhiệt độ lên men cao, nhiệt độ lên men chính  15 tới 250C và nhiệt độ lên men phụ 130C. Việc tạo ra máy lạnh nhân tạo vào những năm 70 của thế kỷ 18 đã giúp cho kỹ thuật lên men chìm càng phát triển. Kỹ thuật lên men chìm mang lại những ưu điểm cho sản phẩm. Năm 1900 tại Mỹ đã có 1816 nhà máy bia được xây dựng với sản lượng gần 47 triệu hectoliters nâng mức tiêu thu đầu người hàng năm từ 4 lít/ người lên 60 lít/ người.

Đến cuối thế kỷ 19 tại Đức quê hương của bia hầu hết sử dụng kỹ thuật lên men chìm; tại Anh đa số các nhà máy sử dụng kỹ thuật này chỉ có Bỉ là quốc gia chống lại kỹ thuật này.

Khoa học bia và các ứng dụng

Vào năm 1883 Viện nghiên cứu và giảng dạy về bia đã ra đời tại Đức, cùng thời gian này tại Áo, Thụy sỹ cũng xuất hiện các Viện nghiên cứu với chức năng tương tự. Tại Anh khoa học ngành bia có phần đại chúng hơn dưới hình thức tuyển sinh những khóa học dành cho những người làm việc sản xuất hoặc những người muốn làm việc trong lĩnh vực sản xuất bia. Cho đến năm 1900 chưa nơi nào trên thế giới có trường dạy về công nghệ sản xuất bia. William Waters Butler chịu tránh nhiệm giảng dạy ngành mới này tại trường đại học Birmingham . Bia được giảng dạy tại trường cao đẳng Heriot-Watt tại Edinburgh vào năm 1904. Tạp chí đầu tiên  Brewers’ Journal xuất bản tại Anh vào năm 1865. Lui Pasteur đã nghiên cứu quá trình lên men của rượu và bia từ năm 1860 đến 1870. Ông ta cho rằng việc loại trừ vi sinh vật bất lợi trong quá trình lên men rượu, bia là cực kỳ quan trọng nhưng việc ứng dụng nhiệt để thanh trùng bia được áp dụng lần đầu tiên lại là người Đức khái niệm thanh trùng Pasteur ra đời và ứng dụng nhiều tại Đức.

Sản phẩm bia chai có lẽ xuất hiện vào đầu thế kỷ 18, nhưng mãi đến năm 1872 chai có nút vặn mới được cấp bằng sáng chế; Chai có nút bần vào năm 1875 và chai như hiện tại vào năm 1892. Những tiến bộ của ngành sản xuất bia trong những thế kỷ trước đã được hòan thiện trong thế kỷ 20.

Thế kỷ 20

Vào những năm đầu của thế kỷ 20 Anh, Đức và Mỹ là 3 nước có sản lượng bia lớn nhất chiếm 67,5% tổng sản lượng trên toàn thế giới. Sản lượng bia có sút giảm chút ít trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần 1 và lần 2. Sau những năm chiến tranh sản lượng lại tăng ấn tượng. Từ năm 1960 đến 1990 sản lượng bia toàn thế giới tăng 3 lần. Trong ¼ cuối thế kỷ 20 Trung Quốc nổi lên với sản lượng rất ấn tượng 1 tỉ Hectoliters trong 30 năm. Vào năm 2002 sản lượng bia trên thế giới ước tính 1400 triệu Hectoliters cao gấp 5 lần so với thế kỷ trước. Một đặc điểm quan trọng của ngành bia trong thế kỷ 20 là chính sách thuế khác nhau trên sản phẩm bia của các quốc gia đây là một vấn đề của ngành bia. Cụ thể sau thế chiến lần thứ 2 thuế suất đối với sản phẩm bia tại Mỹ và Đức không thay đổi trong khi đó tại Anh lại tăng. Vào cuối thế kỷ 20 thuế bia tại Mỹ tăng 2 lần nhưng chỉ bằng ¼ thuế tại Anh. Thuế trên bia tại Anh cao hơn tại Pháp 7 lần nên xảy ra hiện tượng buôn bán nhộn nhịp (đôi khi bất hợp pháp) giữa người buôn bán và khách hàng tiêu thụ tại các bến cảng và kênh nhằm thu lợi nhuận từ sự chênh lệch giá này.

Ứng dụng khoa học và thay đổi công nghệ

Việc đầu tư cho nghiên cứu bia chưa bao giờ cao thậm chí trong điều kiện sức tiêu thụ các sản phẩm thực phẩm thấp. Cụ thể nước Anh chỉ chi 0,003% doanh thu của ngành bia cho nghiên cứu trong những năm 30 của thế kỷ 20. Trong thời gian này với những tiến bộ của ngành hóa học và vi trùng học đã dẫn đến việc ứng dụng các tiến bộ này vào sản xuất tuy nhiên chỉ có những nhà sản xuất với quy mô trung bình áp dụng. Trong những năm 20 của thế kỷ 20 sự đa dạng của nguyên liệu Malt và cấu trúc của acid đắng được nghiên cứu. Thập niên 1930 các kỹ thuật phân tích hóa học và vi sinh vật học được phát triển. Tuy nhiên, vai trò của những nhà hóa học và vi khuẩn học không được đánh giá cao trong nhà máy sản xuất. Người ta chỉ xếp những nhà khoa học này ở vị trí giữa thứ 2 và thứ 3. Chính vì thế trong thời gian này những nhà khoa học làm việc trong nhà máy hiếm khi có các báo cáo được đăng tải trên các tạp chí và ít khi xuất hiện trong các cuộc hội thảo ngoại trừ các nhà khoa học làm việc tại phòng thí nghiệm của Carlsberg tại đây các nhà khoa học được đánh giá cao. Các nhà khoa học có đóng góp to lớn như Auntie Cornelius’ Sullivan, Horace Brown, và cộng sự. Một điều thú vị nữa là ngành bia hình như là một ngành độc quyền của Nam giới; Phụ nữ chỉ làm việc trong phòng thí nghiệm và hầu như không có người phụ nữ nào làm Giám đốc nhà máy bia trên thế giới.

Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào thực tế

Máy nghiền trục dùng nghiền Malt được ứng dụng vào năm 1902; Richard Seligman giới thiệu bộ trao đổi nhiệt ngược chiều được cấp bằng sáng chế năm 1923. Vào năm 1951 Quỹ nghiên cứu bia công nghiệp (the Brewing Industry Research Foundation BIRF) ra đời họat động bằng nguồn tài chính từ đóng góp của ngành công nghiệp bia đặt trụ sở tại Anh. Trong  25 năm đầu tiên tồn tại, BIRF đạt được những thành tựu nổi bật, hơn 100 nhà khoa học và nhân viên hỗ trợ, và họ xuất bản hơn 700 bản báo cáo khoa học.

Trong nửa đầu thế kỷ 20 mặc dù xu hướng sản xuất riêng lẻ còn thống trị thị trường nhưng quy mô của những cơ sở này ngày càng tăng với các ứng dụng về vật liệu chế tạo thiết bị (Inox, thép không rỉ); kỹ thuật phân tích; kỹ thuật nảy mầm… đã giải quyết các vấn đề công nghệ và vận hành. Vào năm 1950 ứng dụng cơ giới hóa quá trình nảy mầm giúp giải phóng lao động và ổn định chất lượng Malt. Các ứng dụng chất hocmon sinh trưởng (gibberellic acid kết hợp với kali bromate) trong qúa trình nảy mầm vào những năm 60 nhưng việc này dừng hẳn trong thập niên 80 vì các ứng dụng điều chỉnh nhiệt độ nảy mầm. Vào năm 1998 có 30 công ty sản xuất Malt tạo ra 60% sản lượng trên toàn thế giới. Thập niên 1980 đưa ra những kết quả nghiên cứu của sự hình thành Nitrosamin và các tiêu chuẩn áp dụng cho tác nhân gây ung thư này. Sử dụng hơi nước bằng cách đun nóng ống đồng đã được ứng dụng từ năm 1880 nhưng gặp nhiều phản đối cho đến thế kỷ 20 sau khi có những cải tiến. Hệ thống lọc thùng được ứng dụng trong những năm 60 và là chuẩn của các nhà máy. Thiết bị lắng xóay tâm (the Whirlpool separator) được lắp đặt đầu tiên tại nhà máy của Molson Canada năm 1960 và đến những năm 80 được lắp đặt trong mọi nhà máy.

Không phải tất cả những ứng dụng khoa học vào sản xuất bia đều mang lại hiệu quả, có những ứng dụng gây nên thảm họa như việc sử dụng muối Cobatl trong cải thiện khả năng tạo bọt vào cuối những năm 1950 đã gây nên cái chết của hàng trăm người tại Bắc Mỹ, việc sử dụng muối Cobatl bị cấm vào năm 1966. Công nghệ lên men liên tục được triển khai và ứng dụng trong thâp niên 50 nhưng không được hưởng ứng bởi các nhà sản xuất. Nhà máy đầu tiên ứng dụng kỹ thuật lên men liên tục trên thế giới được lắp đặt tại New Zealand năm 1957. Những năm 1990 thêm 1 nhà máy ứng dụng kỹ thuật lên men phụ liên tục tại Phần Lan. Tính đến thời điểm cuối thế kỷ 20 có 99,99% nhà máy sản xuất bia trên thế giới sử dụng kỹ thuật lên men gián đoạn. Khó khăn của kỹ thuật lên men liên tục là chủng nấm men. Các tiến bộ về biến đổi gene của thế giới có thể giải quyết được vấn đề nêu trên. Tuy nhiên, việc áp dụng những đối tượng chuyển đổi gene vào thực tế chưa được mọi người trên thế giới chấp nhận. Chỉ có Mỹ là quốc gia chấp nhận sản phẩm chuyển đổi Gene hoặc có thái độ trung lập đối với sản phẩm này.

 

 

Thành phần và giá trị dinh dưỡng của bia

Bia là loại thức uống giải khát rất giàu dinh dưỡng. Nếu được sử dụng đúng với hàm lượng thích hợp, bia sẽ giúp cho cơ thể cảm thấy thoải mái, dể chịu và tăng sức lực cho cơ thể. So với trà và cà phê, bia không chứa các kim loại gây hại, so với rượu thì hàm lượng cồn trong bia rất thấp (3-6%v/v)

Bên cạnh công dụng giải khát, bia còn cung cấp cho con người các giá trị dinh dưỡng nhất định: cung cấp nguồn năng lượng cho cơ thể hoạt động, cung cấp các vitamin và khoáng chất.

Một lít bia có thể cung cấp từ 400-800Kcal (tuỳ theo từng loại bia) trong khi năng lượng cần thiết cho cơ thể của con người bình thương là 3000-3500Kcal/ ngày. Do vậy, nếu ta sử dụng đúng mức thì sẽ tiết kiệm được năng lượng lấy từ những nguồn thực phẩm dinh dưỡng khác ( thịt, trứng, sữa, bánh mì…)

Ngoài ra, trong bia còn có một số viatmin, trung bình 1 lít bia có 20-50mg tianin (B1); 340-560mg riboflavin (B2); 5800-9000mg acid nicotinic (PP).

Trong bia nước chiếm trên 90%. Bia có độ rượu nhẹ (hàm lượng rượu khoảng 3-6%), có gas (hàm lượng CO2 khoảng 3-4 g/l), có bọt mịn xốp, có hương vị thơm ngon rất đặc trưng.

Hương và vị của bia là do các hợp chất chiết từ nguyên liệu, cồn, CO2 và các sản phẩm lên men khác tạo ra.

Trong bia có một số chất bổ dưỡng:

Chất đạm : đặc biệt là đạm hoà tan chiếm 8- 10% chất tan bao gồm : protein, peptid, và amino acid.

Glucid : Glucid tan (70% là dextrin, pentosan- sản phẩm caramen hoá).

Vitamin : chủ yếu là các vitamin nhóm B (vitamin B1, B2,PP).

Lupulin trong bia (có ở hoa houblon) có tính an thần dễ ngủ.

Đặc biệt CO2  trong bia  có tác dụng làm giảm nhanh cơn khát cho người uống, giúp tiêu hoá nhanh thức ăn và ăn uống ngon miệng, giảm mệt mỏi, tăng phần tỉnh táo nếu sử dụng một liều lượng thích hợp

Các loại bia.

Bia là một biểu tượng tinh thần của loài người, bằng các tiến bộ khoa học kỹ thuật chúng ta đã tạo ra tính nghệ thuật cho sản phẩm này. Ngày nay có khỏang 5000 nhà máy bia nổi tiếng trên thế giới cho ra 8 loại bia khác nhau. Có khoảng 40.000 nhãn hiệu bia được bán trên thị trường toàn thế giới trong số đó nhiều nhãn hiệu có cùng phong cách. Theo tự điển “phong cách” (Style) được định nghĩa: Bằng phương pháp, kỹ thuật khác nhau tạo ra sản phẩm có chất lượng khác biệt so với những sản phẩm khác

Làm thế nào để tạo ra những phong cách bia khác nhau?

Tất cả các nhãn hiệu bia đều có sự kết hợp của các yếu tố sau:

Thành phần

Quy trình

Bao bì

Tiếp thị

Văn hóa

Bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố trên chúng ta có thể tạo ra hàng trăm loại bia thành công khác nhau. Điều này giải thích tại sao nhiều nhãn hiệu tồn tại lâu dài và tại sao có những sản phẩm chỉ tồn tại một thời gian ngắn.

Thành phần: bia được tạo thành bởi thành phần gồm: nước; dịch trích ly từ Malt đại mạch; Hop và sự chuyển hóa của nấm men. Đây là những thành phần chủ yếu và sự thay đổi các thành phần này dẫn đến việc cho ra đời những sản phẩm có phong cách khác nhau.

Nước: Nước dùng trong sản xuất bia rất quan trọng vì nó có tác dụng rất lớn đến quá trình trích ly dịch đường từ Malt; quá trình lên men; hương thơm và vị của sản phẩm.

Dịch trích ly từ Malt: (đường có thể sử dụng để lên men) Mỗi loại Malt có một đặc tính đặc biệt góp phần tạo nên chất lượng của bia. Chúng ta chỉ quan tâm đến những loại đường tạo ra trong quá trình trích ly Malt.

Các loại Malt ngũ cốc

Pale Malts

American two-row

American six-row

Belgian two-row

British two-row

Canadian two-row

British Pilsener

German Pilsener

Belgian Pilsener

British Lager (two-row)

Lager Malt (two-row)

Lager Malt (six-row)

Malt khác

American wheat

American soft white wheat

Belgian wheat

German wheat

German dark wheat

American rye

Malt đặc biệt

Light

Sauer (acid)

American Vienna

German Vienna

British mild

German smoked ( Bamberg )

British peated

Scottish peated

Dark

American victory

British brown

Belgian biscuit

Belgian aromatic

British amber

Canadian honey

American two-row (toasted)

American special roast

Melanoidin

Belgian Munich

German Munich

American Munich (light)

American Munich (dark)

Canadian Munich (light)

Canadian Munich (dark)

British Munich

Caramelized Malts

Dextrin Malt

Belgian caramel Pils

British CaraMalt

American crystal 108L

American crystal 208L

American crystal 308L

American crystal 408L

American crystal 608L

American crystal 808L

American crystal 908L

American crystal 1208L

British Light Carastan

British Carastan

British crystal 50–608L

British crystal 70–808L

British crystal 95–1158L

British crystal 135–1658L

German Carahell

German light caramel

German dark caramel

German wheat caramel

Belgian CaraVienne

Belgian CaraMunich

Belgian Special “B”

Roasted Malts

American chocolate

Belgian chocolate

British chocolate

German black Caraffe

German Caraffe special

American black patent

British black patent

Belgian black

Ngũ cốc không nảy mầm

American roasted barley

American black barley

Belgian roasted barley

British roasted barley

German roasted wheat

Roasted rye

German Caraffe chocolate

 

Hop (Hoa Houblon): đóng vai trò rất lớn trong việc tạo vị đắng và hương vị của bia ngoài ra nó còn có tác dụng kháng khuẩn cho sản phẩm. Cao Houblon là sản phẩm trích ly từ hoa chúng đóng vai trò tạo vị đắng cho sản phẩm nhiều hơn là tạo hương. Việc kết hợp các loại hoa Houblon tạo nên sự cân bằng giữa vị đắng và ngọt góp phần tạo ra hàng trăm loại bia khác nhau.

Nấm men: Hầu hết bia sử dụng 2 loại Nấm men (Lager và Ale) có hàng trăm chủng nấm men từ 2 loài trên được sử dụng trong sản xuất bia. Mỗi chủng đều có đặc tính riêng ảnh hưởng đến sản phẩm. Ví dụ như hàm lượng ester; hợp chất sulfua; diacetyl; hợp chất phenol…

Quy trình: Có hàng trăm quy trình sản xuất ảnh hưởng đến hương vị, cảm quan, sự cân bằng và những đặc tính của sản phẩm bia. Các yếu tố liên quan đến quy trình công nghệ trong sản xụất bia như:

Thiết kế và cấu hình của thiết bị

Quá trình nảy mầm ngũ cốc

Quá trình nghiền

Quá trình đường hóa

Quá trình lọc

Quá trình đun sôi

Nhiệt độ và thời gian lên men

Thời gian lên men phụ

Quá trình lọc trong bia

Tiếp thị sản phẩm

Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm tiếp thị đóng vai trò cực kỳ quan trọng nhằm tạo ra ham muốn tiêu thụ sản phẩm trong tâm trí của khách hàng. Rất nhiều ví dụ cho thấy vai trò của tiếp thị trong việc tiêu thụ một sản phẩm mặc dù sản phẩm đó không có gì nổi bật so với các sản phẩm khác cùng loại có mặt trên thị trường.

Văn hóa

Các yếu tố về chính trị; văn hóa; xã hội; tôn giáo đều ảnh hưởng đến sản phẩm bia. Ví dụ: Vào năm 1516 luật độ thuần khiết của Đức (Reinheitsgebot) ra đời đã ảnh hưởng đến các nhà sản xuất nhỏ.

Việc hạn chế nhập khẩu lúa mạch tại Nigeria dẫn đến việc phát triển các sản phẩm bia nhẹ làm từ lúa miến. Cũng như thế do thuế suất tăng cao của nguyên liệu sản xuất bia dẫn đến sản phẩm SoSho.

Trong thời kỳ lập thuộc địa Anh là nước có nhiều thuộc địa nhất thế giới: “Mặt trời không bao giờ lặn trên thuộc địa của Anh”. Chính vì thế chỉ có một kiểu bia của Anh tồn tại và ổn định trong thời gian dài.

Trong thời kỳ cấm rượu do xã hội lên án các mặt tiêu cực của rượu bia và do chính sách thuế đánh rất cao nên những nhà sản xuất tạo ra những sản phẩm có những đặc tính phù hợp và không phạm luật.

Các tu viện và các tôn giáo cũng tạo ra những kiểu sản phẩm phù hợp với giáo luật của họ.

Nguồn gốc của các kiểu bia

Bia Bock của Đức là một loại bia sẫm màu, độ cồn cao và có xuất xứ từ thị trấn Einbeck của Đức. Một công tước của vùng miền Nam khi thưởng thức loại bia này đã rất thích thú và cho nhập vào quê hương mình.

Bia nhẹ của Ấn độ được tạo ra bởi nhu cầu đặc biệt. Do lúc này Ấn độ là thuộc địa của Anh và việc cung cấp bia cho một nơi có khỏang cách xa rất khó khăn và dễ bị hư hỏng. Vì thế sản phẩm này sử dụng hàm lượng Hop rất cao và nồng độ cồn cũng cao để chống lại hư hỏng xảy ra trong hải hành vượt biển từ Anh đến Ấn độ. Kết quả sản phẩm này rất gắt và đắng. Dự định ban đầu của nhà cung cấp sẽ pha loãng với nước sau khi đến nơi nhưng khách hàng thích thú với sản phẩm không pha loãng hơn.

Bia nhẹ Pilsener ra mắt đầu tiên tại Plzen một địa danh thuộc Tiệp Khắc nay là Cộng hòa Czech. Nó sử dụng kỹ thuật lên men lạnh (lên men chìm), nồng độ cồn thấp và làm từ nước có độ cứng thấp (mềm). Ngày nay bia Pilsener rất phổ biến tại Châu Âu.

Trên đây là những ví dụ về nguồn gốc của một số kiểu bia cổ điển còn tồn tại qua thời gian, các kiểu khác không thấy có chứng cứ cụ thể.

Một minh chứng thú vị về xuất xứ của 1 kiểu bia được ghi chép trong sách The Flowing Bowl xuất bản năm 1899 tại Anh nói về công thức tạo ra bia gà trống

Các kiểu bia trên thế giới

Tất cả các kiểu bia trên thế giới

Bia Ales xuất xứ tại Anh

Loại bia Anh cổ điển

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.044- 1.056 (11- 140 Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008- 1.016 (2- 4 0 Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.5- 4.2% (4.5-  5.5%)

Độ đắng (IBU): 20- 40

Độ màu (EBC): 5- 14 (10-  28 EBC)

 

Loại bia Anh- Ấn

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.050- 1.064 (12,5- 160 Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.012- 1.018 (3- 4,5 0 Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 4- 5,6% (5-  7%)

Độ đắng (IBU): 35- 55

Độ màu (EBC): 6- 14 (12-  28 EBC)

 

Loại bia đắng thường

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.033–1.038 (8–9.50Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.006–1.012 (1.5–30Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 2.4–3.0% (3–3.7%)

Độ đắng (IBU): 20–35

Độ màu (EBC): 8–12 (16–24 EBC)

 

Bia đắng và rất đắng

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.038–1.045 (9.5–110Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.006–1.012 (1.5–30Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.3–3.8% (4.1–4.8%)

Độ đắng (IBU): 28–46

Độ màu (EBC): 8–14 (16–28 EBC)

 

Bia nhẹ kiểu Scottish

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.030–1.035 (7.5–90Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.006–1.012 (1.5–30Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 2.2–2.8% (2.8–3.5%)

Độ đắng (IBU): 9–20

Độ màu (EBC): 8–17 (16–34 EBC)

 

Bia nặng kiểu Scottish

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.035–1.040 (9–100Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.0010–1.014 (2.5–3.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 2.8–3.2% (3.5–4%)

Độ đắng (IBU): 12–20

Độ màu (EBC): 10–19 (20–38 EBC)

 

Bia Scottish xuất khẩu

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.040–1.050 (10–12.50Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.010–1.018 (2.5–4.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.2–4.2% (4.0–5.3%)

Độ đắng (IBU): 15–25

Độ màu (EBC): 10–19 (20–38 EBC)

 

Bia nâu kiểu Anh

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.040–1.050 (10–12.50Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008–1.014 (2–3.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.3–4.7% (4–5.5%)

Độ đắng (IBU): 15–25

Độ màu (EBC): 15–22 (30–44 EBC)

 

Bia nâu nặng (Imperial Stout)

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.080–1.100 (19.5–230Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.020–1.030 (4–7.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 5.5–9.5% (7–12%)

Độ đắng (IBU): 50–80

Độ màu (EBC): 20- 40 EBC

 

Bia lúa mạch kiểu Anh (English-Style Barley Wine Ale)

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.085–1.120 (21.5–280Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.024–1.032 (6–80Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 6.7–9.6% (8.4–12%)

Độ đắng (IBU): 40–60

Độ màu (EBC): 14–22 (28–44 EBC)

 

Các sản phẩm xuất xứ từ Ailen (Irish Origin)

Bia đỏ

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.040–1.048 (10–120Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.010–1.014 (2.5–3.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.2–3.6% (4–4.5%)

Độ đắng (IBU): 20–28

Độ màu (EBC): 11–18 (22–36 EBC)

 

Bia cổ điển

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.038–1.048 (9.5–120Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008–1.012 (2–30Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.2–4.2% (3.8–5%)

Độ đắng (IBU): 30–40

Độ màu (EBC): 40+ (80+ EBC)

 

Bia có xuất xứ từ Bắc Mỹ

Bia nhẹ kiểu Mỹ

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.044–1.050 (11–12.50Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008–1.014 (2–3.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.5–4.3% (4.5–5.5%)

Độ đắng (IBU): 28–40

Độ màu (EBC): 6–14 (12–28 EBC)

 

Bia nhẹ Ấn độ kiểu Mỹ

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.050–1.070 (12.5–170Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.012–1.018 (3–4.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 4–6% (5–7.5%)

Độ đắng (IBU): 40–65

Độ màu (EBC): 6–14 (12–28 EBC)

 

Bia hổ phách/ đỏ kiểu Mỹ

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.048–1.058 (12–14.50Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.012–1.018 (3–4.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.5–4.8% (4.5–6%)

Độ đắng (IBU): 30–40

Độ màu (EBC): 11–18 (22–36 EBC)

 

Bia vàng

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.045–1.056 (11–140Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008–1.016 (2–40Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.2–4% (4–5%)

Độ đắng (IBU): 15–25

Độ màu (EBC): 3–7 (6–14 EBC)

 

Bia nâu nặng kiểu Mỹ

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.050–1.075 (13–17.50Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.010–1.022 (2.5–5.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 4.5–7% (5.7–8.8%)

Độ đắng (IBU): 35–60

Độ màu (EBC): 40+ (80+ EBC)

 

Bia có xuất xứ từ Đức

Bia nâu

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.044–1.048 (11–120Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008–1.014 (2–3.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.6–4% (4.3–5%)

Độ đắng (IBU): 25–48

Độ màu (EBC): 11–19 (22–38 EBC)

 

Bia kiểu miền Nam Đức Hefeweissbier

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.047–1.056 (11.8–140Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008–1.016 (2–40Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.9–4.4% (4.9–5.5%)

Độ đắng (IBU): 10–15

Độ màu (EBC): 3–9 (6–18 EBC)

 

Bia kiểu miền Nam Đức Kristal Weissbier

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.047–1.056 (11.8–14 0Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008–1.016 (2–4 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.9–4.4% (4.9–5.5%)

Độ đắng (IBU): 10–15

Độ màu (EBC): 3–9 (6–18 EBC)

 

Bia kiểu miền Nam Đức Dunkel Weissbier

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.048–1.056 (12–14 0Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008–1.016 (2–4 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.8–4.3% (4.8–5.4%)

Độ đắng (IBU): 10–15

Độ màu (EBC): 10–19 (20–38 EBC)

 

Bia có xuất xứ từ Bỉ và Pháp

Bia Flanders

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.044–1.056 (11–14 0Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008–1.016 (2–4 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.8–4.4% (4.8–5.2%)

Độ đắng (IBU): 15–25

Độ màu (EBC): 12–20 (24–40 EBC)

 

Bia Dubbel

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.050–1.070 (12.5–17 0Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.012–1.016 (3–4 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 4.8–6.0% (6.0–7.5%)

Độ đắng (IBU): 18–25

Độ màu (EBC): 14–18 (28–36 EBC)

 

Bia Tripel

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.060–1.096 (15–24 0Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008–1.020 (2–5 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 5.6–8.0% (7.0–10.0%)

Độ đắng (IBU): 20–25

Độ màu (EBC): 3.5–7 (7–14 EBC)

 

Bia nhẹ

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.044–1.054 (11–13.5 0Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008–1.014 (2–3.5 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.2–5.0% (4.0–6.0%)

Độ đắng (IBU): 20–30

Độ màu (EBC): 3.5–12 (7–24 EBC)

 

Bia trắng (Bia lúa mì)

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.044–1.050 (11–12.5 0Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.006–1.010 (1.5–2.5 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.8–4.4% (4.8–5.2%)

Độ đắng (IBU): 10–17

Độ màu (EBC): 2–4 (4–8 EBC)

 

Bia Lambic

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.044–1.056 (11–14 0Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.000–1.010 (0–2.5 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 4–5% (5–6%)

Độ đắng (IBU): 11–23

Độ màu (EBC): 6–13 (12–26 EBC)

 

Lager bia (Bia nhẹ)

Xuất xứ Đức- Châu Âu

Bia Pilsener kiểu Đức

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.044–1.050 (11–12.50Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.006–1.012 (1.5–3 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.6–4.2% (4–5%)

Độ đắng (IBU): 30–40

Độ màu (EBC): 3–4 (6–8 EBC)

 

Bia Pilsener kiểu Bohemian

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.044–1.056 (11–140Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.014–1.020 (3.5–50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.2–4% (4–5%)

Độ đắng (IBU): 30–45

Độ màu (EBC): 3–7 (6–14 EBC)

 

Bia Pilsener kiểu Châu Âu

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.044–1.050 (11–12.50Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.008–1.010 (2–2.5 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.6–4.2% (4–5%)

Độ đắng (IBU): 17–30

Độ màu (EBC): 3–4 (6–8 EBC)

 

Bia Bock truyền thống Đức

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.066–1.074 (16.5–18 0Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.018–1.024 (4.5–6 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 5–6% (6–7.5%)

Độ đắng (IBU): 20–30

Độ màu (EBC): 20–30 (40–60 EBC)

 

Bia xuất xứ Nam Mỹ

Bia nhẹ Mỹ

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.040–1.046 (10–11.50Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.006–1.010 (1.5–2.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.2–4.0% (3.8–5%)

Độ đắng (IBU): 5–14

Độ màu (EBC): 2–4 (4–8 EBC)

 

Bia ít cồn kiểu Mỹ

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.024–1.040 (6–100Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.002–1.008 (0.5–20Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 2.8–3.5% (3.5–4.4%)

Độ đắng (IBU): 5–10

Độ màu (EBC): 1.5–4 (3–8 EBC)

 

Bia nhẹ thấp đường kiểu Mỹ

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.024–1.036 (6–90Plato)

Đường sót (0Plato ): 0.992–1.004 (-2 đến 10Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 2.8–3.5% (3.5–4.4%)

Độ đắng (IBU): 3–10

Độ màu (EBC): 1.5–10 (3–20 EBC)

 

Bia cao cấp kiểu Mỹ

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.044–1.048 (11–12 0Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.010–1.014 (2.5–3.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 3.6–4% (4.3–5%)

Độ đắng (IBU): 6–15

Độ màu (EBC): 2–6 (4–12 EBC)

 

Bia có nguồn gốc khác

Bia Úc, châu Mỹ latin; nhiệt đới

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.032–1.046 (8–11.50Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.004–1.010 (1–2.5 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 2.3–4.5% (2.9–5.6%)

Độ đắng (IBU): 9–25

Độ màu (EBC): 2–4 (4–8 EBC)

 

Nước giải khát lên men có hương liệu

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.030–1.110 (7.5–260Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.006–1.030 (1.5–7.5 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 2–9.5% (2.5–12%)

Độ đắng (IBU): <10

Độ màu (EBC): 0–50 (10–100 EBC)

 

Bia rau

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.030–1.110 (7.5–260Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.006–1.030 (1.5–7.5 0Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 2–9.5% (2.5–12%)

Độ đắng (IBU): 5–70

Độ màu (EBC): 5–50 (10–100 EBC)

Bia thảo dược và gia vị

Độ đường ban đầu (0Plato ): 1.030–1.110 (7.5–26 0Plato)

Đường sót (0Plato ): 1.006–1.030 (1.5–7.50Plato)

Alcohol % khối lượng (thể tích): 2–9.5% (2.5–12%)

Độ đắng (IBU): 5–70

Độ màu (EBC): 5–50 (10–100 EBC)

Nguồn Sưu Tầm

 

 

 

 

 

Giới thiệu PYBECO

Phòng Kinh Doanh

Công ty Cổ phần bia và nước giải khát Phú Yên

Kinh doanh bia xuất khẩu

Địa chỉ: KCN Hoà Hiệp, Đông Hoà , Phú Yên
Fax: (057)3. 548264
Email:

Kinh doanh bia trong nước

Địa chỉ: KCN Hoà Hiệp, Đông Hoà , Phú Yên
Fax: (057)3. 548264
Email:

Bình chọn
  1. Bạn biết đến website Pybeco nhờ ?
    1. Tìm trên mạng
      30 (26%)
    2. Qua báo chí
      13 (11%)
    3. Tình cờ
      35 (31%)
    4. Người quen giới thiệu
      36 (32%)
  2. Tổng lượt bình chọn: 114

Loading ... Loading ...